Đọc một cuốn sách khoa học, chúng ta thường chú ý tới những phát hiện nhờ kết luận thuộc một số lĩnh vực được nghiên cứu thử nghiệm trong phòng thí nghiệm hoặc nhờ cách quan sát bản chất hiện tượng. Đây là nhiệm vụ phức tạp nhưng sẽ trở nên dễ hiểu hơn nếu có một ví dụ. Nhận định đầu tiên được đưa ra là một ông hoàng luôn khiến người khác khiếp sợ.
Thứ hai, cho đến cuối thế kỷ XIX, những cuốn sách khoa học lớn đều chỉ dành cho những độc giả không chuyên. Bạn phải nhớ đặt chúng trong khi đọc. Cuốn sách này ghi lại sự biến thể của các vật thể sống qua nhiều thế hệ, và cách thức chúng chuyển sang những họ thực vật và động vật mới; bàn về sự thuần hoá vật nuôi trong nhà cũng như những biến đổi dưới tác động của điều kiện tự nhiên; chỉ ra cách thức đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên để tạo nên và duy trì sự phân họ động thực vật; đưa ra quan điểm rằng các loài không cố định và luôn biến đổi trong quá trình chuyển tiếp từ trạng thái kém rõ ràng sang trạng thái rõ ràng và ổn định hơn, thông qua một loạt dẫn chứng từ những loài động vật đã tuyệt chủng, từ những so sánh về phôi thai học và giải phẫu học.
Cuối cùng, bạn cần đọc những hàm ý khi nó đã được cô đọng thành thục. Bước tiếp theo, bạn phải hỏi xem liệu tác giả có sử dụng ngôn ngữ nào đặc biệt không. Nhưng đây mới chỉ là một vấn đề của việc đọc.
Điều này giải thích tại sao các tác giả thường thay thế một từ đơn lẻ bằng một cụm từ khá chi tiết khi muốn diễn đạt dễ hiểu. Cuối cùng là những bài luận chính, hoàn toàn mang tính triết học lý thuyết hay quy phạm về vật lý, siêu vật lý, đạo đức, chính trị và thi ca. Ai thực hiện nhiều hoạt động hơn sẽ đọc tốt hơn.
Xét trên khía cạnh nào đó, bạn không cần đặt ra câu hỏi này khi đọc tiểu thuyết, truyện, kịch hoặc thơ, tức là bạn không phải thực hiện thêm bất cứ hành động nào. Khi mua một cuốn sách, bạn đã thiết lập quyền sở hữu với nó. Nếu tác giả các cuốn sách tồi dùng lối viết hàm ngôn, bạn sẽ không thể hiểu được dụng ý của tác giả ngoại trừ việc nhận ra sự diễn đạt thiếu chính xác của anh ta.
Có thể họ không cần viết hay nói ra mọi thứ một cách rõ ràng, nhưng nếu được yêu cầu tường thuật lại cấu trúc cuốn sách thì có thể họ sẽ làm gần giống công thức chúng tôi nêu trên. Điểm khác biệt thứ hai bắt nguồn từ thực tế là những câu phức tạp thường biểu đạt nhiều hơn một nhận định. Nếu bạn hỏi ai đó lối ra ở đâu, anh ta chỉ cho bạn phải đi theo hành lang B, khi đó âm điệu của anh ta thế nào bạn cũng không quan tâm.
Hai điểm phê phán đầu tiên này có liên quan đến nhau. Bên cạnh đó, hầu như cuốn sách nào cũng có rất nhiều đoạn không trình bày toàn bộ hay một phần của lập luận. Cả hai hình thức diễn đạt trên đều khuyên ta làm cái gì cũng phải đúng lúc, kịp thời, mặc dù câu mệnh lệnh nghe có vẻ nhấn mạnh hơn nhưng chưa chắc đã dễ nhớ hơn.
Như đã nói, Plato nêu lên những vấn đề triết học trường tồn; Socrates thông qua các mẩu đối thoại đã nêu lên những câu hỏi tuy đơn giản nhưng sâu sắc như trẻ em thường hỏi; Aristotle thì nhìn nhận những phản đối của các nhà triết học khác và trả lời họ. Họ cho rằng tất cả các bất đồng đều xuất phát từ hiểu lầm. Nó cần phải được hoàn thành bằng việc phê bình, đánh giá sách.
Aristotle gọi nguyên nhân hiểu này là một bước chuyển tại chỗ. Muốn học từ sách giả tưởng, chúng ta phải tự suy nghĩ về những bài học đó; còn để học được từ nhà khoa học và triết gia, trước hết bạn phải hiểu những gì họ nghĩ. Nhưng liệu việc sử dụng một từ với nhiều nghĩa khác nhau có phải là dùng từ một cách mập mờ không? Và các tác giả có hay sử dụng nhiều nghĩa khác nhau của một từ, đặc biệt là các từ quan trọng không?
Đó cũng là điều công bằng với tác giả khi được trò chuyện với độc giả, được nghe họ nhận xét về tác phẩm của mình. Chúng tôi mới chỉ ra rằng, khi chạm đến một vấn đề nào đó, không chỉ có một quyển sách nói về nó. Văn phong của Aquinas là sự kết hợp giữa việc đặt câu hỏi và trả lời những phản đối.