Tuy nhiên, các nhà triết học thường hay đặt ra những từ mới, hoặc biến một số từ trong ngôn ngữ đời thường thành từ chuyên môn. Theo đó, từ được nhận biết bằng âm chứ không phải bằng các chữ cái. Quy tắc thứ hai là đọc lại bài thơ nhưng không đọc thầm mà đọc to lên.
Hãy mở trái tim và tâm hồn để đón nhận các nhân vật, tạm hoãn mọi sự nghi ngờ (nếu có) về các tình tiết của tác phẩm. Nhận xét thứ ba cũng liên quan tới hai nhận xét đầu. Sở dĩ như vậy là vì với lĩnh vực khoa học xã hội, độc giả thường phải đọc từ hai tác phẩm trở lên về cùng một chủ đề thì mới có thể hiểu được chủ đề đó.
Từ điển trước hết là một công cụ giáo dục. Điều này cũng tương tự với tác phẩm hư cấu vì người viết tiểu thuyết có phong cách hoàn toàn khác người viết tả thực. Tuy nhiên, có một bước còn cao hơn thế, và chỉ độc giả nào thật sự có tài mới có thể làm được khi anh ta đọc đồng chủ đề.
Đôi khi, các minh họa và biểu đồ cũng giúp bạn hiểu được những hiện tượng đang được miêu tả. Khi đã quen với các nhân vật trong truyện, bạn có thể tìm ra mối liên hệ giữa họ trong thế giới tưởng tượng mà họ đang sống, chấp nhận các quy định xã hội của họ, hít thở bầu không khí, thưởng thức đồ ăn của thế giới đó và theo học tới cùng qua các cuộc phiêu lưu. Điều này rất quan trọng khi đọc tạp chí và báo, nhưng nó cũng có thể áp dụng cho các cuốn sách về lịch sử đương đại.
Nhưng có nhiều cách kể khác nhau nên chúng ta phải biết sử gia đã chọn cách nào để kể câu chuyện của ông ấy. Chúng tôi đã từng hỏi sinh viên của mình cuốn sách họ đọc nói về vấn đề gì, và yêu cầu họ miêu tả một cách khái quát nhất xem cuốn sách đó thuộc loại nào. Cách thứ hai ám chỉ việc đọc các tác phẩm lớn có sự trợ giúp của cuốn Syntopicon.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng sử gia phải luôn dựng nên một cái gì đó. Ngay khi những yêu cầu đó không còn, không còn nguồn nào để tiếp tục hoạt động trí tuệ và họ ngừng hẳn việc suy nghĩ và dừng lại. Câu ghép là một tập hợp câu nối với nhau bởi những từ như và, nếu… thì, không những… mà còn.
Sinh viên hay độc giả đọc triết học cổ nên phân biệt những ưu điểm và nhược điểm của từng loại. Tuy nhiên, định nghĩa này lại làm nảy sinh câu hỏi Thế nào là đọc tốc độ? hay Mối quan hệ giữa các cấp độ đọc và các khoá dạy đọc tốc độ như thế nào?. Trong khi vừa phải xây dựng một hệ thống thuật ngữ, chúng ta cũng đồng thời đối mặt với nhiệm vụ tạo dựng một loạt nhận định mang tính trung lập.
Tác giả sách thực hành có thể viện đến nhiều yếu tố để thuyết phục người đọc rằng các quy tắc nêu trong sách là hợp lý hoặc minh họa sự hợp lý đó bằng cách cho người đọc thấy được cách thức hoạt động của chúng trong trường hợp cụ thể. Vấn đề nằm ở chính việc gạt bỏ hoàn toàn các câu hỏi triết học hạng nhất vốn rất được độc giả bình thường quan tâm. Họ có thể biết rõ chuyện gì đang diễn ra ở một khu vực cụ thể và thuật lại các sự kiện đó trên báo, tạp chí hoặc viết thành sách.
Ở một chừng mực nào đó, tình trạng tương tự cũng xảy ra đối với sách triết học. Lý do không chỉ bởi vì chúng được viết theo thể thơ (trừ Thiên đường đánh mất, các tác phẩm còn lại đều được diễn xuôi cho dễ đọc) mà điều khó khăn nằm ở tính nhân văn của tác phẩm, ở cách tiếp cận vấn đề. Có thể bạn sẽ thấy những gì thâu tóm được sau khi đọc lướt là đủ, và cuốn sách chỉ có ích cho bạn trong chừng mực đó chứ không mang lại thêm điều gì nữa.
Nhưng sức mạnh khiến ta tiếp tục hành động từ những kích thích ấy lại rất hạn chế. Nếu tác giả động chạm tới câu hỏi, ta có thể kết luận là sau đó kiểu gì tác giả cũng trả lời nó. Trên thực tế, nếu người ta đọc một cuốn sách để tăng cường hiểu biết, hay có thêm thông tin, thì họ cũng có thể đọc cuốn đó để giải trí.